Chầu văn, còn gọi là Hát văn, là một loại hình nghệ thuật ca hát cổ truyền của người Việt, có xuất xứ ở vùng châu thổ Bắc Bộ. Đây là hình thức lễ nhạc gắn liền với nghi thức Hầu đồng của tín ngưỡng Tứ phủ (Đạo Mẫu) và tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần (Đức Thánh Trần Hưng Đạo).
Hầu đồng là nghi lễ chính của thờ Mẫu Tứ Phủ cũng như một số dạng thờ Mẫu khác. Đó là nghi lễ nhập hồn của các vị Thánh Tứ Phủ vào thân xác các ông Đồng, bà Đồng, là sự tái hiện lại hình ảnh các vị Thánh, nhằm phán truyền, chữa bệnh, ban phúc lộc cho các tín đồ đạo Mẫu.
Như thế, Chầu văn là một hình thức trình diễn dân gian gắn với nghi thức Hầu đồng và là một thành tố không thể thiếu trong nghi lễ Hầu đồng. Liên quan đến việc ứng xử với Chầu văn, Hầu đồng lâu nay còn nhiều vấn đề khá phức tạp. Trong phạm vi một bài viết nhỏ, chúng tôi không chủ trương tập trung vào việc giới thiệu nội dung, giá trị của Chầu văn, Hầu đồng mà chỉ muốn gợi ra mấy vấn đề để cùng nhau chia sẻ, hy vọng qua đó sẽ góp phần vạch tìm hướng đi cho hoạt động bảo vệ và phát huy các di sản văn hóa này trong thời gian tới.
Chầu văn là hát chầu, trong đó phần “hát” bao gồm cả việc có nhạc đệm, có cả múa; “chầu” là “hầu”, là mục đích của việc trình diễn – dâng lên Mẫu, Thánh (“Chầu” có nhiều nghĩa, nhưng ở đây “Chầu” hẳn được dùng với nghĩa đó là hát/trình diễn để chầu/hầu Mẫu/Thánh, tương tự như “hầu/chầu vua”, “áo hầu/chầu”…). Và, dù với nghĩa nào, thì Chầu văn cũng chỉ là một loại hình nghệ thuật trình diễn dân gian, không phải là một nghi lễ.
Hầu đồng/Hầu bóng/Lên đồng, như trên đã đề cập, là nghi lễ chính của thờ Mẫu Tứ phủ, thờ Đức Thánh Trần.
Thực tế quá trình ra đời, phát triển trong quá khứ và hiện tại, Chầu văn có thể tồn tại/trình diễn riêng biệt. Mấy chục năm qua, hát văn vẫn còn được xem là một trong những loại dân ca và thường xuyên được giới thiệu trên đài phát thanh, đài truyền hình, hoặc trên sân khấu của các cuộc thi/liên hoan nghệ thuật truyền thống chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp. Tuy vậy, về ngọn nguồn và bản chất, Chầu văn luôn gắn với nghi lễ Hầu đồng, là một thành tố không thể thiếu trong nghi lễ Hầu đồng. Chẳng hạn, qua khảo sát, nghiên cứu Chầu văn ở Nam Định, người ta nhận thấy: “Trên thực tế, hát văn hay hát chầu văn còn có thể tồn tại riêng biệt. Ở Nam Định, hát văn biểu hiện chủ yếu dưới hình thức hát hầu trong các giá đồng của tín ngưỡng thờ Mẫu và hát cửa đền ở các di tích thờ Đức Thánh Trần, diễn ra trong cả năm, nhưng tập trung nhất vào tháng Ba và tháng Tám âm lịch. Những năm gần đây, còn có hát thi trong lễ hội Phủ Dầy” (Nguyễn Kim Dung, Nghi lễ Chầu văn của người Việt ở Nam Định, Website Cục Di sản văn hóa). Nói cách khác, có thể “có” Chầu văn mà không có Hầu đồng, nhưng không thể có Hầu đồng mà không có Chầu văn.
Điều dễ nhận thấy là, trong thời gian qua và cho đến hôm nay, cả nhận thức và ứng xử của chúng ta đối với di sản văn hóa phi vật thể nghi lễ Hầu đồng còn chưa thống nhất.
Một mặt, nghi lễ Hầu đồng ngày càng nhận được sự quan tâm của nhà nước và cộng đồng, với một số biểu hiện:
– Nghi lễ Hầu đồng chính thức được nhà nước vinh danh (đưa vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia; triển khai lập hồ sơ trình UNESCO xem xét đưa vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại…).
– Được “công khai” tổ chức ở nhiều di tích lịch sử – văn hóa, cơ sở tôn giáo tín ngưỡng, thu hút đông đảo công chúng tham dự (hơn 20 năm trước, đây là việc “không thể”); một số cơ quan quản lý và nghiên cứu văn hóa đã trực tiếp tổ chức nghi lễ Hầu đồng, tổ chức hội thảo khoa học và giao lưu quốc tế về nghi lễ này…
– Nghi lễ Hầu đồng ngày càng được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ những giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học vốn có của di sản.
Mặt khác, nghi lễ Hầu đồng vẫn còn bị nhìn nhận như một tệ nạn xã hội đi liền với những mê tín dị đoan, lừa đảo, trục lợi, với một số biểu hiện:
– Nhà nước vẫn coi việc tổ chức lên đồng/hầu đồng là một hoạt động “vi phạm hành chính”, tức là “hành vi cố ý hoặc vô ý của tổ chức, cá nhân vi phạm quy tắc quản lý nhà nước trong các lĩnh vực văn hóa – thông tin mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự”, nên nếu vi phạm, sẽ “bị xử phạt hành chính”.
Trong thực tiễn đời sống, không ít người vẫn bày tỏ thái độ phê phán, xem thường những người tổ chức, thực hành và tham dự nghi lễ Hầu đồng. Những người này thường gọi các ông/bà đồng, các cung văn (những người thực hành Chầu văn), những con nhang, đệ tử theo hầu,… là “bọn đồng cốt” với ý miệt thị.
Tình trạng chưa thống nhất trong việc đánh giá giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học và vai trò của nghi lễ Hầu đồng trong đời sống văn hóa, tinh thần, tâm linh của người Việt, nhất là trong việc ứng xử với nghi lễ Hầu đồng, xuất phát từ những lý do như:
– Bản thân chính sách và ứng xử thực tiễn, từ phía nhà nước, với nghi lễ Hầu đồng cũng chưa thống nhất (vừa coi đó là hành vi vi phạm hành chính, vừa có những hình thức tôn vinh di sản văn hóa này).
– Trong thực tiễn đời sống, nếu “tính từ bàn thờ trở ra”, việc tổ chức nghi lễ Hầu đồng đã và đang có quá nhiều biến tướng theo hướng tiêu cực, làm mất đi bản chất/giá trị tốt đẹp vốn có của di sản văn hóa này. Thực trạng đó đã đến mức báo động, khiến GS. Ngô Đức Thịnh, một nhà nghiên cứu khả kính, có nhiều đóng góp trong việc làm sáng tỏ giá trị của di sản và hành động thực tiễn nhằm phục hồi di sản, đã phải bộc bạch: “Tôi rất buồn phải nói rằng, 80% nghi lễ này hiện nay là biến tướng. Biến tướng nghiêm trọng. Hoàn toàn “vật chất hóa” từ đầu đến cuối. Cách đây khoảng hơn chục năm, khi nghi lễ này vẫn còn “sạch”, hầu đồng chỉ diễn ra đúng là “tùy tâm biện lễ”, không hoành tráng, đồ sộ từ lễ vật, vàng mã đến tiền phát lộc (vì trong nghi lễ hầu đồng có phần phát lộc)… Quần áo để hầu cũng đơn giản, không cầu kỳ, đắt tiền như hiện nay, cốt sao đủ một bộ khăn, áo, mũ… đúng màu sắc cho mỗi giá hầu… Nhưng hiện nay thì cái gì cũng phải to, phải lớn, ngay như ngựa, voi làm bằng mã cũng phải đúng kích cỡ như thật, tiền phát lộc không còn là “bạc lẻ” gọi là tượng trưng mà mệnh giá tiền phải lớn. Lễ vật phải nhiều… Tất cả chỉ vì họ nghĩ rằng “tốt lễ dễ kêu”. Đặc biệt là tầng lớp thương mại, còn làm biến tướng nghi lễ này khi không quan tâm tới Mẫu Địa mà chỉ quan tâm tới Mẫu Thượng ngàn và Mẫu Thoải vì quan niệm đây là những vị thần tài mang đến “tiền rừng bạc bể”. Quan niệm về hầu đồng còn bị họ biến tướng đến mức: “Thứ nhất ngồi đồng, thứ nhì lấy chồng quan”… (GS. Ngô Đức Thịnh, Sự biến tướng trong “Ngôi nhà Mẫu”, Báo Năng lượng mới, số 205, ngày 19-3-2013).
Vấn đề bảo vệ và phát huy giá trị Chầu văn, bước đầu chúng tôi chỉ có thể tạm đưa ra mấy đề xuất sau đây với các cấp quản lý, các nhà khoa học, các cộng đồng là chủ thể di sản văn hóa này:
Một là, cần thống nhất nhận thức rằng, về bản chất, Chầu văn là một thành tố của nghi lễ Hầu đồng; tuy có thể tồn tại độc lập, nhưng để bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa này một cách bền vững, Chầu văn luôn cần được gắn kết với nghi lễ Hầu đồng và cần được thực thi việc bảo vệ và phát huy giá trị trong tổng thể việc bảo vệ và phát huy giá trị nghi lễ Hầu đồng. Liên quan đến vấn đề này, trước hết cần gọi đúng tên của sự vật, hiện tượng: Nghi lễ Hầu đồng; cũng có thể gọi theo truyền thống, là Hầu đồng; nhưng không là nghi lễ Chầu văn.
Hai là, cần kịp thời tham mưu, đề xuất việc sửa đổi, bổ sung phần nội dung của các Nghị định về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa có liên quan đến Lên đồng (Hầu đồng) theo hướng: chỉ xử lý những hành vi “lợi dụng việc tổ chức lên đồng để trục lợi” (và làm hại người khác, gây mất an ninh, trật tự xã hội).
Ba là, cần tăng cường kiểm tra, giám sát để kịp thời ngăn chặn và xử lý những tổ chức, cá nhân thực hành biến tướng nghi lễ Hầu đồng, làm sai lệch giá trị của di sản văn hóa này.
Bốn là, cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học và truyền thông để công chúng hiểu đúng chân giá trị của di sản văn hóa nghi lễ Hầu đồng, từ đó chung sức và đóng góp thực sự hiệu quả vào hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa đặc biệt này.
Cuối cùng, vì nhận thức và ứng xử với nghi lễ Hầu đồng đã và đang là câu chuyện phức tạp, còn nhiều “nhạy cảm”, nên hành trình bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa nghi lễ Hầu đồng cần phải được thực sự bắt đầu từ chính mỗi người trong chúng ta, trước hết là những cán bộ quản lý văn hóa, nhà khoa học, đặc biệt là việc “làm gương” của các cán bộ, công chức, cùng nhận thức và thực hành nghiêm túc, đúng đắn của những ông/bà đồng, con nhang, đệ tử của nghi lễ/tín ngưỡng này./.
NGUYỄN HỮU TOÀN
(Trích từ tài liệu của Hội thảo khoa học « Bảo tồn và phát huy Di sản văn hoá hát văn tỉnh Bắc Giang »)
http://www.tapchisongthuong.com/index.php?option=com_content&view=article&id=1855:tu-suy-nghi-ve-viec-bao-ve-va-phat-huy-gia-tri-chau-van&catid=114:nghien-cuu-trao-doi&Itemid=511